Ông Hồ Đức Lam, Chủ tịch Hiệp hội Nhựa Việt Nam, cho biết trong thời gian qua, ngành Nhựa đã chú trọng phát triển xuất khẩu cả chiều rộng và chiều sâu. Nguyên liệu chất dẻo là mặt hàng có hàm lượng kỹ thuật cao đã có giá trị xuất khẩu cao hơn so với xuất khẩu sản phẩm nhựa thuần túy. Cụ thể, kim ngạch xuất khẩu chất dẻo nguyên liệu đạt hơn 407 triệu USD, tăng 25% về lượng và 57% về kim ngạch so với năm 2012.
Trong năm 2013, các sản phẩm nhựa của Việt Nam hiện được áp dụng vào nhiều lĩnh vực khác nhau như nông nghiệp, công nghiệp, bưu chính, viễn thông, xây dựng. Đã có hơn 20 chủng loại sản phẩm được xuất khẩu vào các thị trường trên thế giới. Trong đó, có 6 loại sản phẩm đạt kim ngạch ước trên 100 triệu USD. Một số sản phẩm có kim ngạch xuất khẩu tăng mạnh như túi nhựa (27%); tượng nhỏ, chậu hoa và các đồ trang trí (26,4%); các loại ống và phụ kiện, nắp, mũ, van (27,9%). Đặc biệt, 4 sản phẩm là túi nhựa; tấm, phiến, màng nhựa; các sản phẩm vận chuyển, đóng gói và vải bạt có kim ngạch xuất khẩu đạt trên 150 triệu USD.
Hiện tại, các sản phẩm của nhựa Việt Nam đã có mặt tại 151 thị trường trên thế giới, kể cả những thị trường đòi hỏi chất lượng cao, tiêu chuẩn kỹ thuật tối ưu như Nhật Bản, Mỹ, Đức, EU.
Trong năm 2013, có 3 thị trường Nhật Bản, EU và Mỹ đang là thị trường chính của ngành nhựa Việt Nam. Theo đó, Nhật Bản là thị trường có kim ngạch xuất khẩu cao nhất với 400,98 triệu USD, tăng 11,2% so với năm 2012, chiếm 19,9% trong tổng kim ngạch xuất khẩu của ngành; Hoa Kỳ đạt 175 triệu USD, đứng vị trí thứ 3, tăng 8,7% và chiếm 8,6% trong tổng kim ngạch; EU đạt tỷ lệ tăng trưởng bình quân từ 3-6,1%/năm. Tập trung các thị trường trọng điểm
Theo đánh giá của Hiệp hội Nhựa Việt Nam, năm 2014 xuất khẩu của ngành Nhựa sẽ có mức tăng trưởng trung bình từ 13,5-16,5% so với năm 2013.
Trong đó, Nhật Bản sẽ là thị trường lớn nhiều tiềm năng, hiện tại có 20 chủng loại sản phẩm nhựa được xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Trong đó, có 15 chủng loại sản phẩm nhựa đạt kim ngạch trên 1 triệu USD.
Ông Đinh Quang Hùng, Tổng Giám đốc CTCP bao bì Tín Thành (1 trong 10 doanh nghiệp nhựa hàng đầu của Việt Nam) cho rằng, các doanh nghiệp Việt Nam cần có chiến lược đầu tư, nghiên cứu sản phẩm, khảo sát thị trường để khai thác cơ hội ở thị trường Nhật. Năm 2014 là đến thời điểm áp dụng thủ tục rà soát kết thúc chu kì áp thuế 5 năm đối với sản phẩm túi nhựa của Việt Nam. Do vậy, các doanh nghiệp cần chú ý để có những quyết sách phù hợp với thị trường.
Thị trường EU cũng đang mở ra nhiều cơ hội cho doanh nghiệp nhựa Việt Nam. Các nhà nhập khẩu đánh giá cao về chất lượng sản phẩm nhựa Việt Nam nên đơn hàng đã tăng trưởng cao trong năm 2013. Tỷ lệ tăng trưởng của các thị trường trong khu vực EU đạt bình quân từ 3-6,1%.
Bên cạnh đó, cần lưu ý với thị trường Hoa Kỳ vì thị trường này vẫn tiếp tục áp thuế chống bán phá giá lên mặt hàng túi nhựa. Hiện nay, kim ngạch xuất khẩu túi nhựa sang thị trường Hoa Kỳ rất khiêm tốn, chủ yếu tập trung vào các sản phẩm nhựa dùng trong vận chuyển, đóng gói và tấm, phiến màng nhựa.
Ngoài ra, các thị trường Ấn Độ và Brazil đang là hai thị trường có khả năng tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bởi họ có dân số đông cùng với nền kinh tế đang trong giai đoạn mở rộng để tiếp tục phát triển. Hiện nay cạnh tranh giữa các doanh nghiệp nhựa trong khu vực rất gay gắt. Để đạt mục tiêu tăng trưởng của ngành Nhựa Việt Nam năm 2014 đạt 16%, theo ông Hồ Đức Lam, về lâu dài cần có những tiểu ban sản phẩm để tạo lợi thế cho sản phẩm nhựa Việt Nam trên thị trường quốc tế thông qua liên kết sản xuất để các doanh nghiệp cùng khai thác, chi phối thị trường. Đặc biệt, để tiến tới xuất khẩu theo chiều sâu, tập trung vào những sản phẩm có giá trị gia tăng cao, các doanh nghiệp cần tập trung hiện đại hóa dây chuyền công nghệ, chú trọng vào những sản phẩm thân thiện với môi trường, an toàn với sức khỏe tiêu dùng, đạt tiêu chuẩn quốc tế để từ đó xây dựng được thương hiệu của sản phẩm nhựa Việt Nam trên thị trường thế giới nhằm phát triển ngành Nhựa một cách bền vững. Trích từ http://www.baomoi.com |